Xơ cứng bì hệ thống là gì? Các công bố khoa học về Xơ cứng bì hệ thống
Xơ cứng bì hệ thống (tiếng Anh: systemic sclerosis) là một căn bệnh tự miễn dịch một số bệnh nhiễm sự hình thành sự xơ hoá tất cả các bộ phận trong cơ thể, b...
Xơ cứng bì hệ thống (tiếng Anh: systemic sclerosis) là một căn bệnh tự miễn dịch một số bệnh nhiễm sự hình thành sự xơ hoá tất cả các bộ phận trong cơ thể, bao gồm da, mạch máu, nội tạng và các mô liên kết. Bệnh thông thường là một triển vọng, và là điều kiện ít phổ biến, ảnh hưởng đến khoảng 10-20 người mỗi triệu.
Xơ cứng bì hệ thống, còn được gọi là bệnh scleroderma, là một căn bệnh tự miễn dịch một số bệnh nhiễm, có khả năng hoạt động ác liệt và liên quan đến sự xơ hoá và tăng sản xuất collagen (một loại protein có trong da và các mô liên kết). Căn bệnh này làm cho da và các cơ quan khác trở nên cứng và căng cơ, gây ra các triệu chứng và biến chứng khác nhau.
Xơ cứng bì hệ thống có thể ảnh hưởng đến nhiều phần của cơ thể, bao gồm:
1. Da: Một trong những triệu chứng đầu tiên và phổ biến nhất của xơ cứng bì hệ thống là thay đổi da. Da thường trở nên cứng, không linh hoạt, có thể làm hạn chế sự di chuyển và gây ra khó khăn trong việc thực hiện các hoạt động hàng ngày. Da có thể trở nên dày và cứng ở tay, ngón tay, khuỷu tay, mặt và các khu vực khác của cơ thể.
2. Mạch máu: Tổn thương mạch máu là một biến chứng phổ biến của xơ cứng bì hệ thống. Tình trạng này có thể làm hạn chế lưu thông máu và gây ra việc suy giảm chức năng của các cơ quan và mô khác nhau.
3. Nội tạng: Xơ cứng bì hệ thống có thể ảnh hưởng đến nhiều cơ quan bao gồm phổi, tim, thực quản, dạ dày, ruột, thận và gan. Các triệu chứng và biến chứng có thể bao gồm khó thở, vấn đề tiêu hóa, viêm màng phổi, suy tim và suy thận.
4. Mô liên kết: Xơ cứng bì hệ thống có thể làm tăng sự sản xuất collagen và xơ hoá các mô liên kết trong cơ thể. Điều này có thể dẫn đến việc suy yếu và cứng cỏi của các cơ, gân và xương.
Triệu chứng khác của xơ cứng bì hệ thống có thể bao gồm mệt mỏi, đau khớp, đau cơ, sưng và quặn ở tay và chân, vết lở loét trên ngón tay và thay đổi màu sắc của da.
Xơ cứng bì hệ thống hiện chưa có phương pháp điều trị chữa trị hoàn toàn, nhưng có thể được điều trị để kiểm soát triệu chứng và hạn chế biến chứng. Điều trị phụ thuộc vào mức độ và phạm vi bệnh ở từng người và có thể bao gồm dùng thuốc, điều chỉnh lối sống, điều trị vật lý và quản lý triệu chứng tương ứng.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "xơ cứng bì hệ thống":
Nghiên cứu trước đây của chúng tôi đã chứng minh sự gia tăng biểu hiện của protein sốc nhiệt (Hsp) 90 trong da của bệnh nhân xơ cứng bì hệ thống (SSc). Mục tiêu của chúng tôi là đánh giá nồng độ Hsp90 trong huyết tương ở bệnh nhân SSc và xác định mối liên quan của nó với các đặc điểm liên quan đến SSc. Có 92 bệnh nhân SSc và 92 người đối chứng khỏe mạnh được sắp xếp theo độ tuổi và giới tính được tuyển chọn cho phân tích cắt ngang. Phân tích dọc bao gồm 30 bệnh nhân bị SSc kèm bệnh phổi kẽ (ILD) được điều trị thường xuyên với cyclophosphamide. Hsp90 gia tăng ở bệnh nhân SSc so với nhóm đối chứng khỏe mạnh. Hsp90 tương quan dương tính với protein C phản ứng và tương quan âm tính với các xét nghiệm chức năng phổi như dung tích sống gắng sức và khả năng khuếch tán cho cacbon monoxide (DLCO). Ở bệnh nhân xơ cứng bì hệ thống da lan rộng (dcSSc), Hsp90 tương quan dương tính với thang điểm da Rodnan được sửa đổi. Ở bệnh nhân SSc-ILD được điều trị bằng cyclophosphamide, không thấy sự khác biệt về Hsp90 giữa lúc bắt đầu và sau 1, 6, hoặc 12 tháng điều trị. Tuy nhiên, Hsp90 ban đầu có thể dự đoán sự thay đổi DLCO sau 12 tháng. Nghiên cứu này chỉ ra rằng nồng độ Hsp90 trong huyết tương gia tăng ở bệnh nhân SSc so với nhóm đối chứng khỏe mạnh cùng độ tuổi và giới tính. Hsp90 gia tăng ở bệnh nhân SSc có liên quan với hoạt động viêm gia tăng, chức năng phổi kém hơn và trong dcSSc, với mức độ tổn thương da. Hsp90 trong huyết tương ban đầu có thể dự đoán sự thay đổi DLCO sau 12 tháng ở bệnh nhân SSc-ILD điều trị bằng cyclophosphamide.
- 1
- 2